Trước khi trả lời câu hỏi này, Thầy muốn nhắc nhở anh chị em một vài điểm căn bản của ngành Nhân Điện, đây là một ngành học chủ yếu là học hỏi những cái thực dụng nhất và lợi ích cho cả hai phương diện cơ thể và tâm linh con người, cho nên những gì không thực dụng chúng ta sẽ không học, không lợi ích chúng ta sẽ không học, cho nên khi đặt câu hỏi anh chị em cũng cần đặc biệt lưu ý những điểm này, chúng ta sẽ không thắc mắc, bình phẩm, phê phán tư tưởng, hành động của người khác, nhưng đồng thời chúng ta cũng không để những tư tưởng hành động của người khác chi phối chúng ta, đỉnh điểm cao nhất của Nhân Điện là Minh Triết Giác Ngộ, bởi vì chỉ có Minh Triết Giác Ngộ thì anh chị em mới biết được giá trị, ý nghĩa những tu tưởng hành động của người khác, mới biết được những gì mình cần phải nghĩ, những gì mình cần phải làm.
Bây giờ Thầy trả lời những câu hỏi của anh chị em, trước nhất là câu hỏi về ý nghĩa, mục đích của hình ảnh một số nhà tu Phật Giáo theo hệ phái Khất Sĩ, đầu cạo trọc, đi chân không, mặc áo cà sa, mỗi ngày chỉ ăn một bữa trưa bằng hình thức cầm bình bát đi khất thực, xin cơm của bá tánh ở ngoài đường. Việc đi xin cơm ăn hàng bữa của những người tu sĩ này có những ý nghĩa, mục đích Đạo Giáo, hình thức là xin cơm ăn, nhưng mục đích là nuôi dạy lòng từ bi của chúng sinh, họ cho rằng một người dám đem thức ăn của mình chia cho người khác phải là người có lòng từ bi, thương người, căn bản đạo đức của một người Phật Tử.
Tư tưởng và hành động đi xin ăn hàng ngày để dạy dỗ Tình Thương của những những tu sĩ Phật Giáo này có nguyên nhân, nguồn gốc từ thời Đức Phật Thích Ca 2560 năm trước, trên miền Bắc Ấn Độ, ngày nay là xứ Nepal dưới chân núi Hymalaysa, một xứ sở rất nghèo nàn, đầy sỏi cát sa mạc, mùa đông tuyết giá, mùa hè khô khan, đời sống dân chúng vô cùng cơ cực đói nghèo, không có cái ăn, cái mặc hàng ngày, cho nên việc một người có thể chia sẻ thức ăn hiếm quí của cá nhân mình, gia đình vợ con, cha mẹ mình cho những người xa lạ qua đường phải được coi như là những hành động từ bi, bác ái, vị tha, nhân đức.
Đức Phật Thích Ca vốn là một vị Thái Tử, vợ đẹp con ngoan, gia đình vương giả thế mà Ngài có thể cạo đầu trọc, đi chân đất, hàng ngày cầm bình bát đi xin cơm từng nhà có những ý nghĩa giáo hoá chúng sinh rất đặc biệt, như Thầy đã nói, chúng ta không phải là một ngành học thuật nghiên cứu văn hoá, lịch sử, tôn giáo, xã hội gì hết, tuy nhiên Thầy cũng giải thích điều này như một thí dụ cho anh chị em học hiểu hai chữ Minh Triết Giác Ngộ mà Thầy đã từng dạy cho anh chị em.
Xã hội Ấn Độ vào thời đại của Đức Phật Thích Ca theo phong tục tập quán, một vị Hoàng Tử phải để tóc, quấn khăn để chứng tỏ địa vị, uy quyền, phải mặc những bộ quần áo đặc biệt của Hoàng Gia và phải măng những đôi hài ủng đặc biệt của giai cấp quí tộc, phân biệt với những người bình dân bá tánh không được ăn mặc như giới quí tộc cũng không được ăn mặc như giới tăng sĩ hay người giàu có. Trong hoàn cảnh đó mà Thái Tử Siddharta sau này là Đức Phật Thích Ca, lại dám cạo đầu, cắt tóc, không vấn khăn, không mặc áo, chỉ dùng có một mảnh vải che thân như những người bình dân cùng khổ, không mang hài ủng, đi chân đất như những người cùng đinh, đây là hành động mang ý nghĩa cách mạng, cải cách xã hội, xóa bỏ giai cấp, thể hiện lời dạy Đức Phật “chúng sinh bình đẳng”.
Mục đích và ý nghĩa của hành động cạo đầu, cắt tóc, mặc áo cà sa, tức áo chỉ có một mảnh vải che thân, đi chân đất của Thái Tử Siddharta là như vậy, vừa là một hành động Đạo lý, vừa là một hành động mang ý nghĩa xã hội, chính trị, là xoá bỏ sự phân biệt giai cấp, một sự phân biệt rất khắt nghiệt trong xã hội Ấn Độ ngày xưa, trong đó người bình dân nghèo khổ phải hứng chịu muôn ngàn chuyện áp bức, bất công, thiệt thòi. Hành động của Đức Phật đã bị các giới quí tộc và tăng lữ Ấn Giáo chống đối và đàn áp kịch liệt mà kết quả như chúng ta đã thấy là cuối cùng đạo Phật chỉ có thể pháttriển ở những quốc gia khác mà không thể phát triển được trên chính đất nước, quê hương của Đức Phật Thích Ca.
2500 năm sau khi Đức Phật viên tịch, trên đất nước Ấn Độ mới có một vị Thánh Nhân đã phần nào phỏng theo thái độ và hành động của Đức Phật Thích Ca để kêu gọi đất nước, nhân dân Ấn Độ xoá bỏ sự phân biệt giai cấp, đó là vị Thánh Mahata Gandhi, là một người thuộc giai cấp quí tộc, tốt nghiệp văn bằng Luật Khoa Anh Quốc, đã từ bỏ chức vụ Luật Sư cao quí, giàu sang dấn thân trên đường tranh đấu cho sự công bình xã hội, bình đẳng giai cấp của xứ Ấn, ông cũng đã cạo đầu trọc, mặc một manh vải trắng của giai cấp bình dân, không mang giày vớ. Hành động của Đức Phật Thích Ca và Đức Thánh Gandhi đều có ý nghĩa và tác dụng giáo dục quần chúng, cải cách xã hội, nhưng mà chúng ta, thời đại này, với những xã hội văn minh, các Quốc gia Âu Tây như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, các Quốc gia Á Châu phát triển như Nhật Bản, Tân Gia Ba, Đài Loan, Đại Hàn, v.v… thì việc đi chân đất, để đầu trần, cầm bình bát đi xin cơm sẽ không có được những ý nghĩa quan trọng và những tác dụng cần thiết, hình ảnh và công việc của các nhà sư khất thực này chỉ còn được coi như là hiện tượng lạ, thỉnh thoảng lại được thấy xuất hiện ở một vài khu phố có người Á Châu.
Nhà Phật dạy Từ Bi, Nhân Điện dạy Tình Thương là thứ tình cảm rất tốt đẹp, tặng phẩm quí giá Thượng Đế đã trao tặng con người khi tạo dựng nơi chốn trần gian, món quà chúng ta cần phải ý thức, trân quí, nuôi dưỡng, nhân rộng và thực hành, tức là chúng ta phải biết thương yêu con người, cây cỏ, thiên nhiên, v.v… nhưng phương thức nuôi dưỡng, thực hành phát triển Tình Thương của ngành Nhân Điện thì rất cụ thể, thực tế, tích cực và lợi ích cho tất cả mọi người, cá nhân, gia đình, xã hội, Quốc gia, Thế Giới, v.v…
Từ Bi và Tình Thương, một cách tổng quát thì có ý nghĩa tương tự nhau nhưng đi vào chi tiết thì Tình Thương có ý nghĩa tích cực hơn Từ Bi, Tình Thương không đòi hỏi đối tượng tính chất, điều kiện gì cả, nhưng Từ Bi thì hàm chứa một đối tượng có những tính chất tiêu cực, thí dụ như trong câu chuyện nhà sư khất thực và người bố thí, nhà sư xin ăn mang tính tiêu cực không có thức ăn, còn người bố thí mang tính tích cực vì có thức ăn. Trong Tình Thương, cả hai đối tượng có thể có cùng một tính chất, hai người giàu có thể thương nhau, hai người nghèo cũng có thể thương nhau, người nghèo có thể thương người giàu và ngược lại, người giàu cũng có thể thương người nghèo. Một thí dụ khác, chúng ta có thể nói là Thượng Đế từ bi đối với con người, nhưng chúng ta lại không thể nói là con người từ bi đối với Thượng Đế.
Nhân Điện dạy Tình Thương mà không dạy Từ Bi vì tính chất rộng rãi và tích cực của chữ Tình Thương so với chữ Từ Bi, đồng thời Nhân Điện cũng cung ứng những phương tiện để Học Viên có thể thực hành Tình Thương, bởi vì nếu không có phương tiện, không có thực hiện thực hành thì có nói đến Tình Thương gì đi nữa cũng chỉ là vô ích mà thôi, thương mình là có thể giúp mình, thương người là có thể giúp người thì mới là Tình Thương thực sự và Nhân Điện thì dạy cho Học Viên thứ Tình Thương thực sự này, một cách nhanh chóng và trực tiếp, Tình Thương của Thượng Đế và Tình Thương của con người.
Thượng Đế có yêu thương con người hay không, tại sao Thượng Đế yêu thương con người và làm sao chứng thực có thứ Tình Thương của Thượng Đế dành cho con người? Như Thầy đã nói, ngành học Nhân Điện của chúng ta không phải là một ngành nghiên cứu hay lý luận, cho nên Thầy chỉ nói và anh chị em thì chỉ cần nghe và biết là Thượng Đế rất yêu thương con người, chẳng những yêu thương con người mà Thượng Đế còn yêu thương muôn loài vạn vật, nếu muốn nói lý do thì thật là đơn giản, tự nhiên và dễ hiểu, là bởi vì con người và muôn loài vạn vật đều là con cái của Thượng Đế, là bởi vì tình cảm yêu thương con cái của mình là thứ tình cảm mà chúng ta, qua những kinh nghiệm bản thân, ai ai cũng có thể nhận biết được.
Nhiều người nghĩ, anh chị em cũng cho rằng con cái là tạo tác phẩm của cha mẹ, một nửa của cha và một nửa của mẹ, nhưng thực sự không phải, anh chị em biết rõ mỗi cá nhân con người gồm có hai phần, thể xác và linh hồn, là một con người không thể thiếu phần nào cả, một thể xác không có linh hồn thì chỉ là một khối thịt, một linh hồn không có thể xác thì chỉ là một con ma. Cha mẹ thì chỉ có thể tạo ra thể xác, không thể tạo ra linh hồn, linh hồn thuộc về tâm linh siêu hình, thuộc về Thượng Đế, do Thượng Đế sinh ra, kiểm soát và điều khiển, không phải của cha mẹ, của con người, cho nên chúng ta không thể nói con cái là tạo vật của riêng cha mẹ.
Ngay cả phần thể xác, cha mẹ cũng chỉ là những phương tiện được Thượng Đế sử dụng để sinh tạo ra hài nhi, thay mặt Thượng Đế để yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ dùm cho Thượng Đế, trẻ con không phải là vật sở hữu riêng tư của con người như quan niệm cổ xưa. Nếu anh chị em muốn chứng minh điều này cũng không có khó khăn gì cả, các nhà khoa học đã nghiên cứu và đã nói cho anh chị em hiểu biết hết tất cả rồi, phải cần đến nhiều quá trình và điều kiện, một con tinh trùng của một người đàn ông mới có thể kết hợp với một cái trứng trên một vòi dẫn trứng của một người đàn bà để tạo thành một phôi thai.
Chỉ có Thượng Đế mới có đủ quyền năng khả năng tạo ra sinh vật, con người thì tuyệt đối không, việc tạo dựng được con cừu Dolly không hề chứng minh con người đã có khả năng cướp quyền tạo hoá sinh ra vạn vật. Tinh trùng là một sinh vật càng ngày càng được khám phá ra những đặc tính kỳ lạ, người đàn ông hoàn toàn không có khả năng sinh ra con tinh trùng, đây là sản phẩm của Thượng Đế trong thân thể của một người đàn ông. Thượng Đế sinh ra rất nhiều triệu tinh trùng trong thân thể một người đàn ông, nhưng chỉ có một số rất ít những con tinh trùng có khả năng và nhiệm vụ kết hợp với một cái trứng nào đó để tạo nên một bào thai.
Tinh trùng là một sinh vật có những khả năng, đặc tính vô cùng kỳ lạ, một sinh vật vô cùng linh động, có khả năng di chuyển rất nhanh và mạnh, có tri thức và có khả năng khứu giác, biết định hướng để di chuyển và biết tìm mùi hương đặc biệt được phát ra từ một cái trứng đã rụng trong một ống dẫn trứng của người đàn bà để tìm đến, đặc biệt nữa là mỗi con tinh trùng có một linh hồn điều khiển. Trứng cũng là một sinh vật, không phải là một viên bi, một cục thịt trong buồng trứng của người đàn bà như nhiều người vẫn nghĩ, mỗi cái trứng có tuổi tác, ngày tháng năm sinh, có thời gian sinh sống, có thời điểm trưởng thành, có giây phút dậy thì, có hoàn cảnh rung động, có giác quan nhận thức, có quyền hạn lựa chọn đối tượng tinh trùng, mỗi cái trứng có hàng vạn cánh cửa nhỏ li ti cho hàng ngàn con tinh trùng đeo bám xin vào, không phải con tinh trùng nào đến sớm nhất hay con tinh trùng nào có sức lực mạnh nhất mà là con tinh trùng nào được trứng lựa chọn theo những tiêu chuẩn riêng tư đầy bí ẩn của trứng, cũng giống như sự lựa chọn một ý trung nhân giữa hàng ngàn vạn thanh niên cầu hôn của một thiếu nữ dậy thì, lúc đó tinh trùng mới được trứng mở cửa cho vào để kết hợp thành một phôi thai.
Sau khi chấp nhận một tinh trùng nào đó, trứng mới mở một cánh cửa duy nhất trong số hàng vạn cánh cửa của nó cho một con tinh trùng duy nhất lọt vào bên trong thành trứng, chỉ có một chiếc đầu bé ti của con tinh trùng được lọt vào bên trong mà thôi, phần đuôi rất dài của tinh trùng phải bị cắt bỏ và vất lại bên ngoài thành trứng, ngay khi được trứng mở cánh cửa tình yêu cho vào, đầu tinh trùng phải tức thì trao ra nhiễm sắc thể DNA của mình để kết hợp với DNA của trứng để tạo thành phôi thai cơ bản. Tuỳ theo thành tố, chất loại DNA của tinh trùng, phôi thai sẽ tạo thành giới tính trai gái của thai nhi, tinh trùng không mang nhiễm sắc thể DNA sẽ không có khả năng tạo thành tế bào gốc, tế bào có khả năng sinh sản ra mọi tế bào khác của một cơ thể con người.
Quá trình sinh sôi nẩy nở tế bào, cơ quan, mạch máu, thành kinh, xương cốt, thịt da, v.v… từ một tế bào phôi thai gọi là hợp tử, thành một thai nhi hoàn toàn trong bàn tay và khối óc tác tạo của Thượng Đế, không phải của cha mẹ, không phải của con người. Không có một ai khác ngoài Thượng Đế có những quyền năng khả năng siêu tuyệt để biến đổi một tế bào hợp tử duy nhất thành hàng ngàn tỷ tế bào khác nhau, hình dạng khác nhau, nhưng lại phải hoàn toàn hoà hợp nhau, tương tác nhau trong mọi vai trò nhiệm vụ riêng cũng như chung.
Như vậy thì vai trò của người Cha trong việc hình thành một hài nhi rất khiêm nhường, vai trò của người Mẹ tuy có quan trọng hơn, công lao cưu mang, một cái nôi êm ấm, che chở, dưỡng nuôi, hình thành nhưng cũng chưa phải là tất cả sự sống của một sinh mệnh. Từ khi lọt lòng MẸ, lớn lên, trưởng thành, già yếu rồi chết đi, toàn bộ sinh mệnh con người luôn luôn tuỳ thuộc sự định đoạt của Thượng Đế, bất cứ một sứ xáo trộn khí hậu, đất đai, sông biển, nước lửa, thiên tai, dịch bệnh nào cũng có thể huỷ diệt con người.
Cho nên chúng ta có thể nói không sợ nhầm lẫn rằng con người chính thật là con cái của Thượng Đế, nói ngược lại, Thượng Đế là cha mẹ đích thực của Nhân Loại, con người, Đấng sinh thành, dưỡng dục linh hồn lẫn thể xác Nhân Loại, Đấng tình thân mà Nhân Loại cần phải biết đến, thương mến, quí trọng, thờ kính, nhưng trên thực tế chưa có ai khác ngoài ngành Nhân Điện của chúng ta đã thiết lập một Đền Thờ để trân trọng thờ cúng. Do căn cơ trình độ, theo phong tục tập quán và danh từ nhân gian Thầy đặt tên cho Đền Thờ là “Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại”, chính thật là chúng ta đang thờ tự Thượng Đế, Đấng Cha Mẹ Nguyên Thuỷ và vĩnh hằng của Nhân Loại, sinh linh.
Tình Thương của Thượng Đế đối với con người là thứ tình cảm tất yếu, tự nhiên như thứ Tình Thương của cha mẹ dành cho con cái của mình, bởi vì nếu như giữa cha mẹ và con cái có những sợi dây ràng buộc hữu hình và cả những sợi dây ràng buộc vô hình, thì giữa Thượng Đế và con người cũng có những sợi dây ràng buộc như vậy, cả hữu hình lẫn vô hình, cả vật chất lẫn tâm linh, cơ thể lẫn linh hồn. Vì Tình Thương, Thượng Đế đã cho con người đủ tất cả mọi thứ, một cơ thể hoàn hảo nhất so với mọi loài sinh vật khác cũng do Thượng Đế sinh tạo ra, một trí năng tài giỏi nhất so sánh với muôn loài, một linh hồn cao cấp nhất ở nơi chốn trần gian, một khả năng tâm linh có thể tương thông với vạn vật, trời đất, vũ trụ, Thượng Đế, cũng chỉ có con người mới có tiếng nói, ngôn ngữ, văn tự, văn hoá, văn minh, văn học, văn chương, âm nhạc, nghệ thuật, kịch ảnh, nhiếp ảnh, thể dục, thể thao, võ thuật, khoa học, máy móc, toán học, số học, y học, thần học, v.v…
Trực tiếp, Thượng Đế ban cho con người mọi thứ ngay trên bản thân con người như vừa kể, gián tiếp Thượng Đế còn ban cho con người tất cả thiên nhiên phong phú tuyệt vời, bầu trời xanh trong đẹp đẽ bảo vệ hành tinh con người sinh sống ánh nắng mặt trời mang đến năng lượng cho con người, sinh vật muôn loài đầy rẫy trên quả địa cầu, những bể nước bao la làm dịu mát hành tinh những cây xanh lọc bầu khí quyển, tạo nên cảnh quan, cung cấp nguyên liệu, khoáng sản, tài nguyên trên đất, dưới đất, trong biển, sâu trong lòng biển v.v… Thượng Đế đã ban cho con người tất cả và con người cũng đã hưởng thụ quá nhiều thứ, nhưng đã có bao nhiêu người ý thức những ân huệ, tặng phẩm của Thượng Đế trao ra? Có thể chỉ vì Thượng Đế vô hình cho nên rất ít con người ý thức sự hiện diện của Thượng Đế, có người ý thức được nhưng vẫn tưởng là Thượng Đế ở rất xa, bên ngoài vũ trụ không gian mà không thấy sự hiện diện của Thượng Đế trong từng hơi thở mạch máu của cá nhân mình, của vũ trụ vạn vật quanh ta.
Thượng Đế có Tình Thương con người và Thượng Đế có rất nhiều quyền năng khả năng con người không có được, nhưng vì Thượng Đế vô hình cho nên có rất nhiều công việc Thượng Đế không thể trực tiếp hành động và trong nhiều công việc, trường hợp Thượng Đế đã phải nhờ đến con người như việc trực tiếp và cụ thể ban phát Tình Thương cho con cái, Thượng Đế đã cho người đàn bà và ban cho những đức tính thích hợp trong công việc trực tiếp cưu mang bào thai, sinh đẻ, chăm lo bú mớm, thương yêu, chăm sóc, vỗ về miếng ăn, giấc ngủ, niềm vui, v… Thượng Đế đã chọn lựa người đàn ông và ban cho sức mạnh, trí khôn để lo toan những công việc lớn lao của Quốc gia, những công việc nặng nhọc của gia đình, v.v…
Trong quá khứ Thượng Đế đã chọn một số cá nhân nơi trần thế để tiếp nhận quyền năng của Thượng Đế để trực tiếp giúp đỡ con người, 200.000 năm trước, Thượng Đế đã chọn nhiều vị Thầy Atlantic, mấy chục ngàn năm trước đây, Thượng Đế đã chọn lựa nhiều vị Thầy Ai Cập, nhiều ngàn năm trước đây, Thượng Đế cũng đã chọn lựa nhiều vị Giáo Chủ nơi trần thế, và bây giờ là lúc Thượng Đế đang cần có nhiều người nhận lãnh những quyền năng của Thượng Đế để giúp đỡ cho Nhân Loại, con người, trần gian, những người đó là Thầy, là anh chị em, là chúng ta, là những Học Viên của ngành Nhân Điện.
Khi đã được Thượng Đế chọn lựa, anh chị em sẽ được Thượng Đế xếp đặt, bằng cách này hay cách khác để anh chị em đến với ngành Nhân Điện và tuỳ theo căn cơ trình độ, Thượng Đế sẽ trao ra bao nhiêu quyền năng và thể loại quyền năng nào với những cấp lớp Nhân Điện khác nhau, công thức luyện tập và sử dụng khác nhau, nhưng nói chung thứ quyền năng mà anh chị em nhận được từ Thượng Đế, cho dù là ở cấp lớp thấp nhất cũng vô cùng huyền diệu, tinh vi và vô cùng lợi ích cho cá nhân, gia đình, xã hội, Quốc gia, Nhân Loại, Thế Giới. Vì căn cơ trình độ con người hiện tại, Thầy đã gọi quyền năng vi diệu và Tình Thương cao cả của Thượng Đế bằng những từ ngữ thông thường nhất là Nhân Điện, là Năng Lượng Vũ Trụ, là Băng Tần Tổng Hợp, với Học Viên những cấp lớp cao cấp nhất của ngành Nhân Điện, Thầy có thể tóm lược tính chất và nội dung của ngành Nhân Điện bao gồm mọi cấp lớp bằng một công thức chung:
Từ công thức chung của ngành Nhân Điện trên đây, tuỳ theo căn cơ trình độ của mỗi người, anh chị em sẽ học hỏi được rất nhiều điều cho thể xác và tâm linh của anh chị em và điều quan trọng là anh chị em học hỏi được những điều rất thực dụng và hữu ích cho dù những đề tài học hỏi thuộc về những lĩnh vực tâm linh siêu hình, cho dù là anh chị em muốn học những đề tài có tính chất triết học hay tôn giáo như Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi.
Muốn Bác Ái, Từ Bi, anh chị em phải có phương tiện và năng lực, nói thương người mà không có phát triển thì chỉ là nói suông, không thể thực hiện được, không có ích lợi gì, nói Bác Ái, Từ Bi mà không có năng lực thì chỉ là vô dụng. Nhân Điện có đối tượng học hỏi là “Nhân Loại – Giác Ngộ –Tình Thương”, dạy cho anh chị em Băng Tần Tổng Hợp, Quyền năng Tâm linh của Thượng Đế, cho nên anh chị em Nhân Điện, dù ở đâu, nếu muốn anh chị em đều có thể thực hiện được và thực hiện có kết quả những điều mà anh chị em cho là đạo đức, thanh cao như Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi.
Vì những nỗi khổ đau của Nhân Loại, ốm đau, bệnh tật, đói nghèo, áp bức, bất công, u minh, mê muội, bao nhiêu tôn giáo đã ra đời, bao nhiêu vị Giáo Chủ đã xuống thế, đã kêu gọi Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi. Thực tế, không phải hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu mà là hàng tỉ con người trên chốn trần gian ngay, đã đang và sẽ tiếp tục khổ đau, thực tế đã cho thấy là những lời kêu gọi suông Từ Bi, Bác Ái của con người hàng ngàn, hàng vạn năm qua, đã không mang lại chút kết quả nào trong việc cứu giúp Nhân Loại.
Ngoài hoạt động của các tôn giáo, các hội từ thiện, nhân đạo trong khoảng nửa thế kỷ này, Thế Giới đã có một cơ quan tổ chức tối cao chung cho mọi nước có tên là Liên Hiệp Quốc, tổ chức này rất lớn, rất giàu có tiền bạc, phương tiện, vật chất, có nhiệm vụ quan trọng là hàng ngày lo cứu giúp cho mọi cá nhân, mọi sắc tộc, mọi Quốc gia, mọi con người nghèo đói, bệnh hoạn, bằng những phương tiện vật chất áo cơm, lương thực, thuốc men, nhà cửa, bệnh viện, trường học, sách vở, v.v… nhưng cũng không thể giải quyết được những vấn nạn tăm tối, nghèo nàn, bệnh hoạn, ốm đau càng lúc càng trở nên nghiêm trọng của Nhân Loại.
Nhân Điện dù chỉ mới có 15 năm thành lập, bằng quyền năng của Thượng Đế, bằng những công thức giản dị Thầy đã truyền dạy, anh chị em và Thầy, chúng ta, những Học Viên Nhân Điện đã có những đóng góp cụ thể và hữu ích cho toàn Nhân Loại, cá nhân, tập thể, Quốc gia, dân tộc, vật nuôi, cây trồng, khí hậu, thiên nhiên, những đóng góp cho sức khỏe, y tế, nông lâm ngư nghiệp, những đóng góp trong cả những lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, năng lượng trong tương lai.
Ngoài những đóng góp vô cùng cụ thể và quí giá cho Nhân Loại về phương diện vật chất như vừa kể, Nhân Điện còn đóng góp cho Nhân Loại phần công việc vô cùng khó khăn và quan trọng nhưng lịch sử Nhân Loại luôn luôn bất lực là lĩnh vực tại sao, lĩnh vực mà ngay cả những vị Thầy Tâm Linh huyền bí của những thời cổ đại xa xưa, Ai Cập, Atlantic cũng không làm được, thì nay Thầy và anh chị em, chúng ta gần như tất cả các Học Viên ngành Nhân Điện đều có thể làm được, là cầu nguyện cho những linh hồn lang thang được nhẹ nhàng siêu thoát, được sớm trở về với Trời Phật, Thượng Thiên, để tu học hoặc tái kiếp làm người, thực tế chúng ta đã làm được vô vàn công quả, công đức, đã thực hiện vô vàn Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi.
Tóm lại, để tạm kết thúc cho bài học này, Thầy muốn nhắc lại một câu hỏi cũ của anh chị em “Với bao nhiêu quyền năng khả năng, tại sao Thầy không làm một nhà lãnh đạo, một lãnh tụ Quốc gia hay Thế Giới mà Thầy lại chỉ làm một người Thầy Nhân Điện?”, câu trả lời cũ của Thầy là: “Một danh y nào đó đã có nói một câu danh ngôn, một ông vua chỉ có thể cai trị một số người, một vị lương y thì có thể cứu độ cả bá tánh, Thầy muốn làm vị lương y hơn là làm một ông vua”, và hôm nay với câu hỏi của anh chị em: “Tại sao chúng ta không làm những nhà đạo đức tu hành để đi rao giảng Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi, mà lại là những Học Viên ngành Nhân Điện?”.
Câu trả lời của Thầy là: “Học Viên Nhân Điện không làm công việc của những người đi rao giảng Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi, công việc này đã có quá nhiều người làm rồi, không còn cần đến chúng ta nữa, chúng ta hãy làm những công việc khác, cấp bách và cần thiết hơn, anh chị em và Thầy, chúng ta hãy mang những quyền năng khả năng huyền diệu của Thượng Đế để thực hiện Tình Thương, Bác Ái, Từ Bi bằng những hành động cụ thể, giúp mình, cứu người, truyền điện cho thể xác con người hết đau bệnh, truyền điện cho cây cỏ hoa màu tốt tươi, truyền điện cho địa phương Quốc gia hoà bình thịnh vượng, truyền điện cho thiên nhiên, vũ trụ, địa cầu bình an, cầu nguyện cho những linh hồn lang thang siêu thoát, cầu nguyện và học hỏi nơi Thượng Đế: Giác Ngộ, Minh Triết để sống và để xứng đáng làm người, làm con cái của Thượng Đế.”