Sự Minh triết và giác ngộ dựa trên tiến trình phát triển bộ não
857 người đã xem · Bình luận ·

Sự Minh triết và giác ngộ dựa trên tiến trình phát triển bộ não

Khi con người ý thức tìm hiểu về nguồn gốc của loài người, thì bắt đầu có sự thay đổi thời kỳ nầy qua thời kỳ nọ, dù khoảng thời gian khác nhau nhưng đó là quy luật tất yếu của thiên nhiên, nó đánh dấu sự thay đối của muôn loài tiến dần lập từ vô thức đến có ý thức và cao hơn, mà con người gọi là sự tiến hóa
NỘI DUNG CHI TIẾT

Sự thay đổi của thời kỳ:

Khi con người ý thức tìm hiểu về nguồn gốc của loài người, thì bắt đầu có sự thay đổi thời kỳ nầy qua thời kỳ nọ, dù khoảng thời gian khác nhau nhưng đó là quy luật tất yếu của thiên nhiên, nó đánh dấu sự thay đối của muôn loài tiến dần lập từ vô thức đến có ý thức và cao hơn, mà con người gọi là sự tiến hóa. Khoa học tìm thấy được vết tích của những thời kỳ đó, và những thay đổi nó. Đổi với khoa học thì sự thay đổi sắp xảy ra cứng ở trong thời khóa biểu của họ. Hiện nay, tất cả muôn loài đang ở trong sự thay đổi qua thời kỳ mới, mà loài người cũng là một phần trong sự thay đổi đó. 

Trên Sự ý thức của con người:

Bắt đầu khi con người tiếp xúc và chống chọi với thiên nhiên, họ đã trải qua một quá trình lâu dài có thể hằng triệu , năm. Lịch sử loài người là một đề tài lớn của những nhà khoa học về tâm lý, triết học, xã hội,... Chúng ta hãy bàn đến một khía cạnh của con người, làm sao có được ánh sáng niềm vui, hòa bình và thương yêu thực sự trong đời sống qua sự phát triển của bộ não và ý thức dựa trên sự thay đổi qua nhiều thời kỳ.

 

Xoay quanh vấn đề nêu trên, đề tài “Thượng Đế và Bộ Não con người” đã gây sự thích thú và tò mò cho nhiều người tìm hiểu và nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người. Trên quá trình đó có một ranh giới giữa khoa học và tâm linh, du khoa học hay tâm linh đối với nhân loại họ là những người tiên phong, những người có cộng đóng góp vào sự nghiệp nghiên cứu tìm hiểu và kho tàng hiểu biết của con người. Riêng đối với nghành Nhân Điện do Thầy Lương Minh Đảng hướng dẫn, tôi cố gắng đưa ra một kết luận để anh chị em Nhân Điện chúng ta nghiên cứu và học hỏi. 


Con người chỉ sử dụng được 10% bộ não của mình

 
Nhiều Khoa học gia và nhiều Bác sĩ đã chứng minh được rằng con người chỉ dùng được 10% bộ não của họ. Và chính họ cũng xác nhận rằng 75% mọi bệnh tật của con người có nguyên nhẫn từ não bộ. Như vậy 10% não gây ra 75% đau bệnh, thật sự con người không sử dụng được một cách thích đáng trên 10% bộ não của họ.

Hầu hết mọi thứ chung quanh ta trong cuộc sống là do bộ não chúng ta tạo ra, nhưng mấy ai hài lòng với những gì mình có, sự thỏa mãn này cũng xẩy ra trong bộ não chúng ta. Đau khổ và bệnh tật của con người cũng bắt nguồn từ đó. Mặc dù con người hiểu rất nhiều về bộ não, nhưng vận . dụng vào cuộc sống thì không mấy ai dùng được đúng mức các chức năng của nó. Nhưng thế nào gọi là dùng đúng chức năng(?). Đây là vấn đề chúng ta nên tìm hiểu và nghiên cứu cho đời sống thực tế của chúng ta. 


Bộ Não con người:

Từ trong bào thai của người mẹ và suốt thời thơ ấu bộ não của con người (phần não trên - cơ quan chánh của sự hiểu biết) gần như không dùng tới mà chỉ dùng phần não dưới (mà nhiều Khoa học gia xem như là não của loài bò sát - là nơi hoạt động của tiềm thức). Đó là những động tác, phản ứng tự nhiên của bản năng giúp cho con người thích hợp vào môi trường sống xung quanh, cho nên mọi hành động giống như một người máy - nói khác đi thời thơ. ấu của con người là thời kỳ vô thức, khi loài người có trình độ tiến hóa cao thì thời kỳ nầy sẽ ngắn ngủi lại, như ngày nay trẻ em rất thông minh và có ý thức sớm.

 

Tất cả mọi nghiên cứu có đồng quan là: các trung tâm chánh của sự dẫn truyền cảm giác thì nằm dọc theo cột sống và sự nhận thức của loài người là do các tế bào ở trong phần não trên. Đây cũng là cơ phận phát ra điện năng rất lớn cho toàn cơ thể và cũng là đầu não của mạng lưới thần kinh hoạt động, điều khiển khắp cơ thể vật chất của loài người. Phần não trên thì phát triển sau phần não dưới. Nhưng nếu cơ thể một con người không có những yêu cầu thích đáng thì phần não trên vẫn xem như chưa hoạt động hay chưa dùng tới. 

Dựa trên thuyết tiến hóa và những tương đồng trong quá trình tiến hóa của muôn loài thì bộ não của con người cũng nói lên những giai đoạn tiến hóa của nó, thể hiện trong sự phân chia ba phần của bộ não: (,) Phần não thấp nhất điều khiển mọi cử động của con người một cách máy móc và không có ý thức, nên phần não nầy xem như não của loài bò sát. Phần não nầy phát triển cái ta của con người,  Phía trên phần não của loài bò sát đồi não (thalamus) được hình thành, phần não nầy thiết lập các giác quan cho cơ thể (thị giác, khứu giác, thính giác, vị giác, xúc giác); hạch hạnh nhân (amygdala) và chân hải mã (hippocampus) tạo thành và điều khiển bộ nhớ, liên quan rõ rệt với tính tình, cảm giác, năng khiếu và trí nhớ. Phần não nầy xem như não của loài động vật có vú, còn gọi là hệ bản tính (limbic system), những hoạt động của hệ bản tính liên quan đến sự bảo vệ sinh tồn, nòi giống; biểu lộ sự sợ hãi, nóng giận hay khoan khoái. Dù vậy sự hoạt động của phần não nầy cũng chưa có ý thức. 
Suốt lịch trình của sự tiến hóa, phần não của loài động vật có vú nhờ những giác quan khởi động sự phát triển những gian của tế bào và chúng có sự nối kết chằng chịt rồi lớn dần. Điểm nổi bật của tiến trình nầy là sự hiểu biết, ghi nhận sự hiểu biết, phối hợp sự hiểu biết và tác động ngược lại môi trường bên ngoài. Bộ não của con người phát triển từ đó và lớn dần như loài người ngày hôm nay; ở phần não trên đánh dấu sự tiến hóa của loài người, nơi đây con người biết suy nghĩ, biết phối hợp sự hiểu biết cho những thiết kế mới, biết kết đoàn, biết tổ chức, biết tạo ra ngôn ngữ để hiểu lẫn nhau để truyền đạt kinh nghiệm cho đời sau, Xã hội ngày nay là tác phẩm của loài người; trong đó vẫn còn đầy sự đau khổ, đói khát và bệnh tật. Nên hành trình còn lại của con người là sự nghiên cứu tìm hiểu sử dụng phần não còn lại trên con đường ..


Khoa học đã có hằng triệu tài liệu nói về bộ não con người, nhất là công trình nghiên cứu bộ di truyền (genome project) cho thấy rằng các nhà Khoa học hiểu biết hầu hết về cơ thể vật chất của con người. Nhưng điều chúng ta đi tìm là sự nhẹ nhàng, là ánh sáng niềm vui, là huyền năng khả năng thật sự của con người còn giấu kín trong bộ não. 

+ Khoa học bắt đầu từ cơ bản của vật chất, để giải thích hiện tượng của thiên nhiên. 

+Tôn giáo dựa trên điều răng, giới cấm để linh hồn tìm về cõi thiên đàng hay cõi niết bàn cực lạc khi linh hồn rời thân xác. 

+ Nhân điện bắt đầu và dựa trên nền tảng của sự yêu thương và lòng tin nơi Thượng Đế. “chỉ có con người mới có thể giúp được con người, ngoài con người không ai giúp được con người đâu.” Bây giờ chúng ta tìm về cái dấu ấn tự ngàn xưa, chúng ta tìm lại chúng ta qua  bộ não, chúng ta sẽ theo Thầy Đáng 


Cái nhân tố quan trọng ở đây là con người, một con người toàn diện với sự hoạt động đầy đủ của não bộ. 

 Sự giới hạn và bế tắc: Dù đã trải qua thời gian rất dài của sự tiến hóa, nhưng loài người chỉ sử dụng được 10% bộ não của mình, phải chăng đây là một thử thách mà Thượng Đế muốn loài người học hỏi và nghiên cứu (?), Trong thời gian rất dài đó con người chỉ dùng bản năng của mình để tự vệ và thích nghi với môi trường. 10% bộ não sử dụng được là do sự tích lũy kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm đó vào trong cuộc sống (phát triển nền văn minh và khoa học kỹ thuật) thật sự con người chưa có những đòi hỏi cao hơn để bộ não sử dụng với một mức độ cao hơn. Bộ não có thể phân chia như sau: phần não trên (upper brain), phần trung não (hay hệ bản tính - limbic system) và phần não dưới (lower brain); hơn nữa phần não trên lại phân đối (bản não trái và bán não phải). Sự phân chia nầy phản ảnh được những sự đối lập và mâu thuẫn trong sự hoạt động của não bộ. 

 Phần não (1) và (2) hướng về thế giới vật chất, giúp cơ thể phát triển và bảo vệ cơ thể trong môi trường sống. Lâu dời nó trở thành thói quen, con người có khuynh hướng tự nhiên hướng về sự hưởng thụ trong thế giới vật chất, mà con người quên lảng đi hay chưa bao giờ để ý đến thế giới của phần não trên. Sự đau khổ, bệnh tật và chiến tranh khiến con người quan tâm và tìm kiếm hòa bình cùng ánh sáng niềm vui. Điều này đúng nhưng nhân loại sẽ không đến cùng nhau được trừ khi mỗi con người có được SỰ MINH TRIẾT và GIÁC NGỘ bây giờ chỉ còn lại sự giải quyết làm thế nào sử dụng được toàn phần não số (3)


Phát triển bộ não con người hay phát triển tâm linh

Nếu chúng ta tạm gác qua kiến thức gọi là khoa học hay những hiểu biết chuyên môn về bộ não để chúng ta nhìn lại vấn đề sự thức tỉnh để đến chỗ giác ngộ. Nhân loại phải tu học để đạt đến mục đích nầy, vì tất cả phải vượt qua sự thay đối lớn của quả địa cầu. Nhân loại phải chuẩn bị để bước qua giai đoạn thay đổi sắp tới nầy, và phải được thích hợp vào môi trường mới. Sự chuẩn bị nầy có thể là làm tăng bộ não trên (3) của con người. 

Riêng đối với ngành Nhân Điện suốt 13 năm qua, Thầy Lương Minh Đảng đã hướng dẫn chúng ta, hướng dẫn bất cứ ai có duyên lành đến với Thầy hay bất kỳ ai tin vào ngành Nhân Điện, biết cách dùng Năng Lượng Vũ Trụ qua hệ thống các Luân Xa giúp con người khỏe mạnh và ánh sáng niềm vui. Luyện tập thiền tịnh với Kim Tự Tháp, với mô hình ăng-ten là trực tiếp đánh thức toàn thể các tế bào thần kinh, sự đánh thức nầy dẫn đến sự hoạt động của siêu thức trong phần não trên và tạo ra Băng Tần Tổng Hợp (BTTH) ở . Luân Xa 6 hay mắt thứ ba. Phần quan trọng khác mà Thầy đã hướng dẫn qua trong Lớp 7 Đặc Biệt tại Saint Louis là vấn đề Tâm Sinh Lý Hợp Nhất (TSLHN), phần nầy cũng vô cùng quan trọng cho sự đánh thức các siêu tế bào của não. Nên phát triển khả năng của LX 6 hay mắt thứ 3, là một phần lớn trong sự phát triển tiềm năng đặc biệt của con người. 

Loài cá, sống và bơi lội trong đại dương của nước. Loài người, sống và sinh hoạt trong biển bao la vô tận của các năng lượng từ trường (quả địa cầu, các hành tinh và tất cả các vì sao) mà lâu nay Thầy Đáng đã dạy và tập tành cho chúng ta sử dụng năng lượng từ trường (NLTT) nầy (gọi chung là NLVT). Chúng ta có khả năng dùng NLVT để giúp chúng ta khỏe mạnh và phát triển tâm linh. Chúng ta có khả năng điều khiển NLVT để giúp người khác hết đau hết bệnh, giúp phát triển hoa màu, ... Chúng ta chỉ sử dụng theo khả năng bộ não của chúng ta. Khi con người phát triển được hoạt động của thượng não là lúc mà con người thật sự làm chủ chính mình và làm chủ thiên nhiên. Đây là ước nguyện của Thầy, là sứ mạng của Thầy đưa nhân loại qua thời kỳ mới (new age) hay thời Thượng Nguồn Thánh Đức.

Chúng ta điều khiển Năng Lượng hay Năng Lượng điều khiển chúng ta: Chúng ta đã biết mỗi điện tích liên kết với một trường xung quanh của nó gọi là điện trường, điện trường nầy có tính hút hoặc đẩy. Hai điện tích kết hợp nhau qua sự hút đẩy của hai lực điện trường, và tất cả điều xảy ra trong trường vô biên của NLVT, khi một vật được tạo thành thì trường của nó là tổng hợp trường của điện tích tạo nên nó.

Khi có dòng điện di chuyển trong dây kim loại nó sẽ tạo ra một điện từ trường tương ứng. Và ngược lại nếu một vật kim loại di chuyển trong một từ trường, thì sẽ có dòng điện phát sinh trong kim loại đó. Con người di chuyển và sinh hoạt trong một đại dương của một trường tổng hợp. 


Khi có dòng điện di chuyển trong dây kim loại nó sẽ tạo ra một điện từ trường tương ứng. Và ngược lại nếu một vật kim loại di chuyển trong một từ trường, thì sẽ có dòng điện phát sinh trong kim loại đó. Con người di chuyển và sinh hoạt trong một đại dương của một trường tổng hợp. 


Khai mở các Luân Xa là khai mở tiềm năng của : con người sử dụng nguồn Nhân Điện trong sự tương quan với nguồn NLVT. Khi con người có được khả năng sử dụng Luân Xa 6 hay con mắt thứ 3 là lúc con người có khả năng sử dụng và điều khiển được (tác dụng ngược lại) NLVT. Nói khác đi là con người hợp nhất được Thân-Ý- Tâm (Body-Mind-Spirit). 

Trở lại vấn đề bộ não, tế bào não có rất nhiều hình dạng khác nhau và kích thước trong khoảng 15-25 micrometers, toàn bộ não có trên 100 tỉ tế bào não (brain cell or neuron), tất cả kết nối nhau thành một mạng lưới chằng chịt. Khi một ý tưởng khởi lên, thì những tế bào não tương thông với nhau bằng những dòng điện cực nhỏ còn gọi là những tín hiệu, di chuyển cực. nhanh trong mạng lưới tế bào não. Sự chuyển vận những tín hiệu nầy tạo ra một điện từ trường cực lớn (nếu nhân với bội số 100 tử). Cho nên phần não trên có thể nói là nguồn điện năng to lớn vô cùng của cơ thể con người (gọi là Nhân Điện). Nhờ luân xa 6 mà con người có thể đưa nguồn điện năng nầy đi khắp nơi theo ý muốn. Đây chính là chìa khóa của ngành Nhân Điện. 
Thân và Ý của con người là phần cơ cấu hạ tầng của con người, hướng về vật chất, trong không gian ba chiều. Tâm con người là cấu trúc thượng tầng của con người, hướng về sự hoạt động và giao thoa giữa các lực điện từ trường, tác động lên các vật khác qua sự rung động củ sóng điện từ trường phát xuất từ luân xa 6. 

Đây là khái niệm trao đổi và tương quan giữa năng lượng (trường) và vật chất. Khi nói đến năng lượng thì nó bao hàm ý nghĩa của các tần số của sự dao động hay rung động (oscillation or vibra- tion); chúng ta bàn đến không gian bốn chiều (không gian Minskowki). Từ khái niệm này giúp ta thay đổi ý niệm của chúng ta về cuộc sống. Đó là lý do Thầy Đáng khuyên anh chị em Nhân Điện thực hành thực hiện những gì học hỏi được qua lời Thầy.

Nghiên cứu và thực hành thực hiện để phần não trên được kích thích, tăng tính hoạt động cho tế bào não: Thực tập thiền với KTT tháp, mô hình ăng-ten, truyền điện đến nơi có tai nạn xảy ra, truyền điện cho thực vật, tăng hoa màu, ... đây là sự trợ lực về mặt vật chất, ngoại lực từ bên ngoài cho hành trình tiến đến sự giác ngộ, nhưng về mặt tâm linh chúng ta cần phải có ý chí cao thượng “mình phải vì mọi người”, chính lực này giúp chúng ta nhẹ nhàng, giúp chúng thoát khỏi những từ lực i hấp dẫn của thế giới vật chất, chúng ta sẽ tìm : thấy lại được sự tự do thật sự của một con người. Chúng ta đã đến thế gian nầy bằng tình yêu thương và một tế bào thật nhỏ bé. Rồi lúc rời khỏi thế giới vật chất chúng ta có còn là khối thương yêu kia hay là một trong những linh hồn bất tử bất diệt mang đầy những khát vọng và đam mê, bị vây chặt bởi trường lực của quả địa cầu. 

 

Một ý niệm về giác ngộ qua khái niệm của môn Vật Lý học (Động Học và Tỉnh học): Nếu chủng ta gọi tất cả suy nghĩ, ước muốn, tham vọng, tu học,… là Fi, mà i là tham số chỉ tất cả ý nghĩ trong bộ não của chúng ta, trong suốt cuộc đời của chúng (kể cả sự trợ giúp của các Đấng cao cả). 


Giác ngộ chính là không, mà cái không ở đây là có tất cả ở trạng thái tỉnh (dù động nhưng mà tỉnh là giác ngộ: đó là trường hợp Thầy Lương Minh Đảng của chúng ta, Thầy như lúc nào cũng động nhưng tâm trí rất sáng suốt nên lúc nào cũng ở trạng thái tỉnh, gọi là siêu thiền định và siêu nhập định.) 

Nên người tu học cần có sự tự do, tự chủ có ánh sáng niềm vui và ung dung tự tại, 

Của Trời, trăng gió kho vô tận,

Cầm hạc tiêu giao đất nước nầy. 


Chúng ta hãy mơ toát ra tình yêu thương của chúng ta, vì thật sự chúng ta đến thế gian bằng tình yêu thương và sự hiểu biết. Vui vẻ và xem nhẹ mọi việc không có nghĩa là buông bỏ tất cả mà chúng ta không muốn đè nặng lên linh hồn của chúng ta bằng những lực mà không phải là của chúng ta. Nên tu học phải có niềm tin và ý chí cao thượng, tất cả sự rung động giúp phần não trên hoạt động là điều cần thiết, thay vì phần não dưới cả đời hoạt động. Bớt đi ham mê và tham vọng để phát triển phần não bộ trên của chúng ta, thì chuyện “siêu phàm nhập thánh” không phải là một chuyện giả tưởng.

Trời Đất sanh ta có ý không?

Chưa sanh, Trời Đất có Ta trong,

Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh,

Trời Đất sanh Tại một chữ đồng. 


Năm mươi, năm mươi: Thầy Lương Minh Đảng vì loài người trong sự chuyển biển thay đổi của thời kỳ (hạ nguồn mạt pháp sang thời thượng nguơn thánh đức), giúp đưa nhân loại bước qua giai đoạn khó khăn nhất. 

Suốt 13 năm Thầy giảng dạy, Thầy đánh thức chúng ta, điểm hóa chúng ta hướng dẫn chúng ta đến mức tâm linh siêu việt, giúp chúng ta minh triết và giác ngộ, Thầy hướng dẫn chúng ta đến cổng thiên đàng. Nhưng chính chúng ta phải bước vào, Thầy không thể “ẩm” chúng ta và đặt chúng ta ở nơi mà chúng ta muốn. Quay trở lại trong ta và dọn sạch những mâu thuẫn và xung đột nội tại: sự mâu thuẫn của bán não phải và bán não trái hay sự mâu thuẫn giữa sự phát triển tâm linh và phát triển vật chất; dùng ý chí cao thượng làm giảm đi sự đảm mê, ích kỷ do sự bảo vệ cái bản ngã từ phần não dưới (nó tiêm ẩn cái vô thức: phần não của loài bò sát và loài động vật có vú). Khi phần não trên hoạt động đúng mức thì phần não dưới là động cơ thúc đẩy sự tiến hóa của chúng ta. 

Lớp phát triển tiềm năng đặc biệt: 

Được tổ chức tại Melbourne, Victoria, Úc Châu dưới sự hướng dẫn của Thầy Lương Minh Đáng từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 3 năm 2002, và chuyến du ngoạn Ayers Rock từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 3 năm 2002. Đây là lớp nhắm vào sự đánh thức và phát triển phần não trên của bộ não con người, mỡ ra cái bí mật về sự giác ngộ à những quyền năng khả năng của loài người đã bị đóng kín tự ngàn xưa.

Phải chăng hình ảnh bộ não in trên núi đã Ayers Rock, muốn nhắc nhở loài người rằng:“tiềm năng khả năng của con người ẩn kín trong bộ não của họ.”?. Có lẽ tất cả anh chị em Nhân Điện ngày nay có duyên lành được thấy, được học cái quyền năng khả năng siêu việt của loài người. Điểm đặc biệt khác là vùng đất Úc châu thì lâu cận với tụ điểm của những đường từ lực của từ trường phát ra từ quả địa cầu ở cực Bắc, hơn nữa núi đá Ayers Rock có từ tính rất mạnh, điều nầy sẽ ảnh hưởng rất lớn cho sự đánh thức tế bào não của con người, đồng thời rộng mở đường tu học của chúng ta. 

Nhiều Khoa học gia trên thế giới ngày nay tìm thấy rằng: cơ thể con người có thể nhận ra sự thay đổi của từ trường và bộ não con người chứa hằng triệu phân tử mang từ tính. Lý do nầy giải thích tại sao những người tu hành tìm cách hòa mình vào vạn vật và khi họ tham thiền nhập định cũng chọn phương hướng, việc làm của họ sẽ được sự cộng hưởng với từ trường của quả địa cầu. Từ đó cho thấy “Lớp Phát Triển Tiềm Năng Đặc Biệt Con Người” và chuyến du ngoạn đến núi đá Ayers mang một ý nghĩa sâu sắc và đặc biệt. 


Mô hình ăng-ten trong tương lai phát sáng sẽ không là một chuyện huyền thoại hay không có căn bản khoa học, khi bộ não con người hoạt động đúng mức. 

Dưới ánh nắng mặt trời, đâu có gì là mới chẳng qua con người chưa tìm gặp hoặc chưa biết đến mà thôi. Khoa học thực ra chỉ là ngôn ngữ để giải thích về thiên nhiên dựa trên căn bản của vật chất. Ngành Nhân Loại Giác Ngộ Tình Thương dưới sự hướng dẫn của Thầy Lương Minh Đảng rồi đây sẽ giúp chúng ta tìm thấy được khả năng ưu việt của con người và mở ra kỷ nguyên mới.



Cơ tận diệt, cơ tận độ hay thời điểm Zero

Vấn đề nầy có rất nhiều nhà tiên tri từ Á sang Âu đã nói đến từ lâu và rất nhiều, cũng có nhiều người thấy được những cảnh tượng hãi hùng của ngày X đó. 

Dựa trên thông điệp đầu năm của Thầy Lương Minh Đáng, thì thời điểm Zero hay ngày X sẽ xảy ra trong vòng hai năm kế tiếp, có nghĩa là ngay từ lúc này đến ngày 31 tháng 12 năm 2003. Sẽ có một chấn động mạnh từ ngoài không gian đưa vào, làm biến đổi mặt quả địa cầu và có 70% con người và vật chất có thể bị “bất khiển dụng”. Và cũng bắt đầu từ đây cho đến cuối năm 2003, Thượng Đế sẽ kết thúc cuộc thí nghiệm của Ngài ở bất kỳ thời điểm nào. Về phần nhân loại cũng phải kết thúc bài thi của mình. 

Theo những dữ kiện của các nhà nghiên cứu về Địa Chất và Vật Lý Địa Cầu thì quả Địa Cầu của chúng ta cũng đã thay đổi ít nhất là 14 lần trong vòng 4.5 triệu năm sự thay đổi đó có thể là trục quay nghiêng đi một góc độ nào đó hay quay 180, cũng có thể là chiều của từ trường thay đổi chiều, sự thay đổi này đưa đến cho nhân loại những tai họa thảm sầu. 

Đời việc gì đến sẽ đến, sự chuẩn bị của chúng ta giúp chúng ta bình tĩnh và sáng suốt bước qua giai đoạn mới, có chuẩn bị chúng ta mới có được khả năng và cơ hội giúp cho mình giúp cho người trên con đường của sự tiến hóa.

Kết luận:

Ý thức về Minh Triết và Giác Ngộ thì rất cần thiết cho người tu học, cho con người thật là người, đó là những bậc Chân nhân hay Thánh nhận. Nghiên cứu và phát triển tâm linh là một yêu cầu cấp bách ở mỗi anh chị em Nhân Điện chúng ta, hướng đến ảnh sáng niềm vui đó là tiêu điểm chung để xây cảnh Niết bàn (hay Thiên đàng) ở trần gian. 

Có thể trong lớp “Phát Triển Tiềm Năng Đặc Biệt Của Con Người” chúng ta sẽ học được cái bí mật ở bộ não con người, giúp chúng ta đạt được sự Minh Triết và Giác Ngộ. Và nơi núi đá Ayers có thể là cơ duyên chúng ta tắm được trong từ trường của quả địa cầu và của các hành tinh lần cận, điều nầy cũng giúp rất nhiều cho việc phát triển tối đa bộ não của chúng ta, biết đâu sự phát triển nầy giúp sự giác ngộ bừng sáng ở mỗi anh chị em. 

Một vấn đề cơ bản khác không thể thiếu cho sự hiểu biết về sự minh triết và giác ngộ là vấn đề “tâm sinh lý hợp nhất”. Đây là vấn đề tự nhiên của muôn loài, nhưng vì phong tục tập quán hay tôn giáo của con người làm sai lạc-đi-ý nghĩa cao quý của nó, dù con người có ý nghĩ và phê phán như thế nào thì vấn đề “tâm sinh lý hợp nhất” vẫn là cái động cơ, là ngòi nổ đưa con người đến chỗ siêu phàm nhập thánh. Thầy Đáng đã trình bày vấn để TSLHN trong Lớp 7 Đặc Biệt tại Saint Louis. Nói theo cách người tập thiền là luyện luồng chân khí của con người đưa lên bệ não, nhờ sự rung động cực mạnh của luồng chán khí giúp cho toàn thể bộ não hoạt động. Có thể nói TSLHN là bí pháp hiệu quả nhất. Những gì Thầy Lương Minh Đảng dạy cho chúng ta suốt 13 năm qua, là những điều kiện ắt có và đủ cho chúng ta bước sang thời kỳ mới (với điều kiện chúng ta phải thực hành thực hiện.) 

Mô hình nầy là mã số chỉ sự quay trở về nguồn: chia ra là hướng xuống, tu học mà hướng xuống sẽ bị lạc vào vô cùng tận của cải thiện hoặc ác, tốt hoặc xấu, khuynh hữu hoặc khuỳnh ngã,... Xóa bỏ sự phân chia sẽ hưởng lên, sẽ trở vào nội tâm của mình, cuối cùng sẽ gặp lại châu tâm của chính mình. 

Tâm Ta, tâm Phật khác dâu mà

Một gốc, một lông xuống Ái-Hà

Mê, giác chẳng đồng nên cách biệt

Ngộ rồi thì rõ Phật là Ta.

Hồng Quang Cư Sĩ 

Thời kỳ mới là một là thời kỳ của sự hợp nhất, vì trong cái một tự nó không có mâu thuẩn. Con đường cuối là trở về ta: trở về tâm ta, khi thấy ở tâm ta: cái xấu - cái tốt, thiện - ác, thiên đàng địa ngục, ma quỷ - tiên phật, đều ở trong tâm ta thì ta còn phân chia hay phê phần ai nữa đây (?). Giác ngộ hay chánh đẳng chánh giác là lú mà mình hội nhập vào vũ trụ, mình không phải là mình nữa. 

Luan Truong